triết học đạo đức
Triết học văn hóa trong đạo đức Hồ Chí Minh là cuốn chuyên khảo có đề tài độc đáo, nội hàm rộng, nhìn từ góc độ triết học văn hóa, coi văn hóa với tư cách là cấu trúc đa nghĩa, mục đích, ý nghĩa sứ mệnh của từng hình thái và hiện tượng văn hóa.
Abstract. Tóm tắt: Học thuyết luân lý và đạo đức được xem là một trong những nền móng vững chắc giúp Nho gia lan tỏa sức ảnh hưởng sâu rộng đến văn
Socrates(470-399 trước CN) là một trong những tư tưởng gia Hy Lạp cổ đại đầu tiên kêu gọi giới học giả và các nhà lãnh đạo quốc gia đương thời, những người quá chú tâm đến các công trình nghiên cứu thế giới tự nhiên, nên quan tâm nhiều hơn đến bản chất của con người.
Loại đạo đức thứ hai do nhân bản sinh sản đặt ra có liên quan với điều mà các nhà "đạo đức học" gọi là cân nhắc "nghĩa vụ", nghĩa là các giá trị không trực tiếp gắn với các thiệt hại và lợi ích của một hành động. Nhận định đầu tiên quan tâm đến bản sắc cá nhân.
3. Phân tích: Đạo đức chỉ đơn giản là một hệ thống giúp con người sống hạnh phúc và sống động. Tất cả những tuyên bố này đề cập đến triết lý đạo đức thường được gọi là chủ nghĩa thực dụng. Việc đầu tiên, từ đạo đức mô tả, đơn giản là quan sát
materi ipa kelas 4 sd kurikulum 2013 pdf. Con người không chỉ sống để thỏa mãn các nhu cầu bản năng nhưng còn theo đuổi các giá trị mà chúng ta tin rằng sẽ giúp cuộc sống trở nên hạnh phúc hơn. Chúng ta đánh giá mọi hành vi và chọn lựa của mình giữa trên các giá trị này. Tốn tại với các yếu tố di truyền hay môi sinh thì chúng ta thật sự tự do chọn lựa các giá trị này không? Các giá trị này đến từ đâu và dựa trên những tiêu chuẩn phán đoán nào? Các tiêu chuẩn ấy là tương đối hay tuyệt đối? Chủ quan hay khách quan? Có phù hợp với viễn tượng nhân bản không? Cuối cùng, tại sao chúng ta “nên” sống đạo đức? Đạo đức học là môn nghiên cứu các chủ đề rộng lớn và quan trọng này. Từ “ethics” đạo đức học, luân lý học bắt nguồn từ tiếng Hy lạp “ethos”, có nghĩa là “phong tục” số ít và ở số nhiều “ethe” mang nghĩa “tính cách”. Từ “morality” cũng có nghĩa tương đương như trong tiếng Hy lạp, bắt nguồn từ tiếng La tinh “mos” và mores ở số nhiều. Tuy nhiên, từ “ethics” thì thông dụng hơn trong phạm vi triết học, còn “morality” thì được dùng nhiều hơn khi nói về thần học luân lý. Từ các nghĩa gốc này cho thấy đạo đức học liên quan đến các “hành vi” phong tục chúng ta phải làm lẫn “tính cách” loại người chúng ta muốn trở thành. Hai chủ đề này liên quan mật thiết với nhau, vì tính cách của chúng ta được hình thành chủ yếu từ cách thức chúng ta quen hành động. Các nghĩa gốc này cũng giúp chúng ta hiểu tại sao chúng ta gọi đạo đức học là học về cách phải sống đời mình thế nào Đạo đức học là môn học về cách cư xử và tính cách đúng đắn của con người. Triết học không phải là môn học duy nhất xem xét cách cư xử và tính cách đúng đắn. Thần học cũng bàn về các vấn đề cơ bản này. Tuy nhiên, câu trả lời của thần học luân lý thì dựa trên các giả thuyết được chấp nhận bởi đức tin tôn giáo. Triết học đạo đức thì cố gắng cung cấp các câu trả lời hoàn toàn dựa trên lý trí và kinh nghiệm. Trong khi cách giải thích về giáo lý tôn giáo có thể khác biệt nhưng nền tảng căn bản của thần học luân lý thì không thể bị tranh cãi. Trái lại, trong triết học đạo đức, mọi câu hỏi đều có thể được đem ra bàn luận—ngay cả câu liệu có một đạo đức học đúng hay không? Tuy nhiên, có một số nhà tư tưởng vừa là triết gia, vừa là thần học gia nhận thấy có sự hòa hợp giữa thần học luân lý và triết học đạo đức, cho dù các điểm xuất phát của hai môn học này thì khác nhau. Nói chung, có ba vấn để nền tảng trong đạo đức học. đó là 1 mối tương quan giữa đạo đức học và bản tính con người, 2 khai triển các giá trị và tiêu chuẩn để phán đoán các hành vi đạo đức, và 3 và lý giải cho mục đích của đời sống đạo đức. Đạo Đức học và Bản tính Con người. Có nhiều cách trả lởi cho câu hỏi “chúng ta nên sống đời mình thế nào để đạt hạnh phúc?” nhưng có lẽ cách thông thường nhất là chúng ta nên sống thế nào để chúng ta thể hiện bản tính con người. Như thế, trước tiên chúng ta phải xác định một cách tổng quát về bản tính con người và rồi cắt nghĩa làm thế nào chúng ta thể hiện được bản tính ấy. Nếu chúng ta chủ trương rằng bản tính con người là yêu thương thì đạo đức sẽ nhắm tới cách dùng lý trí để gia tăng hay củng cố sự yêu thương nơi con người. Nếu bản tính con người là tìm kiếm thỏa mãn hay hạnh phúc cho mọi người, thì tiêu chuẩn đạo đức phù hợp với mục đích ấy sẽ là vị lợi. Nếu bản tính chúng ta là thể hiện các khuynh hướng tự nhiên của con người, thì đạo đức học sẽ là việc khai thác cách áp dụng quy luật tự nhiên. Nếu con người là một thực thể mang tính xã hội, xem tha nhân như chính mình, thì các tiêu chuẩn đối xử công bằng và tôn trọng tự do của tha nhân sẽ là bổn phận thiết yếu của mọi thành viên trong xã hội. Mặt khác, nếu chúng ta cho rằng bản tính con người không hoàn toàn là tốt, thì đạo đức là tìm cách thống trị, sửa sai các khuynh hướng tự nhiên của con người. Ví dụ, người ta có thể coi con người cơ bản là ích kỷ thì đạo đức học cần giúp khắc phục khuynh hướng vị kỷ hầu để đem lại lợi ích cho người khác. Khi triết gia phủ nhận về một bản tính chung thì giá trị đạo đức là thể hiện sự tự do tự sáng tạo qua các chọn lựa độc đáo của mình. Khó khăn ở đây là làm sao dung hòa sự mâu thuẫn giữa loại tự do tự tạo của mình với tự do của tha nhân. Cũng có những nhà nghiên cứu đạo đức học cho rằng yếu tố phái tính chi phối bản tính con người, do đó các nguyên tắc đạo đức tốt cho nam giới không thể giúp phụ nữ phát triển toàn diện và thể hiện bản tính chân thực của họ. Như thế thì “bản tính con người” vẫn còn là một vấn nạn lớn cho đạo đức học. Đó là khuynh hướng tự nhiên hay bản năng của con người, hay là những tập tục, thói quen xuất phát từ truyền thống tôn giáo, văn hóa? Trong khi chưa có sự thống nhất về định nghĩa của “bản tính con người” thì khó mà đạt đến một quan điểm chung về đạo đức học. Các tiêu chuẩn đánh giá đạo đức Đạo đức học nghiên cứu về cách chúng ta phán đoán một hành vi nhân bản là tốt hay xấu, đúng hay sai, căn cứ trên các tiêu chuẩn đạo đức được giả định. Từ thời Cổ Đại Hy Lạp, con người đã nhận biết có những qui luật chi phối lương tâm con người cao cả hơn là qui luật xã hội hay vua chúa. Trong vở kịch “Antigone” của Sophocles, Antigone đã áp dụng qui luật này để biện minh cho hành vi chôn cất xác người anh ruột, cho dù đó là điều bị vua Creon cấm vì người anh đó đã nổi loạn chống lại chính quyền thành Thebes. Những qui luật đạo đức nền tảng đó qua thời gian đã kết hợp thành các tiêu chuẩn đạo đức. Trong lịch sử có một số tiêu chuẩn đạo đức được khai triển và chấp nhận rộng rãi như đạo đức học vị kỷ, đạo đức học vị lợi của Bentham & Mill, đạo đức học luật tự nhiên, đạo đức học bổn phận của Kant, đạo đức học nhân đức của Aristote. Cả bốn tiêu chuẩn đạo đức đầu tiên đều nhắm vào hành vi làm thế nào chúng ta có thể quyết định hành vi hay chọn lựa nào thích hợp nhất cho hoàn cảnh của mình? Tuy nhiên, đạo đức học nhân đức nhắm vào sự thiện hảo của con người cái gì tốt nhất cho con người như là một chủ thể luân lý? Làm thế nào để giúp con người thể hiện sự hoàn hảo luân lý của mình? Sự hiểu biết và ý định của chủ thể rất cần thiết trong công việc phán đoán đạo đức. Cả hai đạo đức học vị lợi và vị kỷ đều phán đoán dựa trên các hậu quả mà hành động hay tính cách tạo ra consequentialism. Ví dụ, chúng ta khen ngợi các hành động bảo vệ môi trường vì chúng giúp thế hệ chúng ta và các thế hệ tương lai sống khỏe mạnh hơn và tốt đẹp hơn. Chúng ta kết án hành động giết người vì sự thiệt hại nó gây ra cho gia đình và bạn bè của nạn nhân, cho cộng đồng nơi tội ác diễn ra, và cho xã hội nói chung. Chúng ta khen ngợi tính quảng đại vì nó giúp một người biết quan tâm tới người khác và thăng tiến hạnh phúc của họ. Chúng ta kết án sự căm ghét vì nó làm hại người bị căm ghét, giảm nhân tính của người có lòng căm ghét, và làm xã hội xấu đi. Đạo đức học luật tự nhiên nhấn mạnh vào ý hướng của hành vi intentionalism. Giả sử tôi giúp cứu chữa một đứa bé em bé bị xe tông, chắc chắn hành động của tôi sẽ được xem là tốt. Nhưng hành động này là tốt cho dù tôi không cứu được mạng sống đứa bé, vì tôi đã có ý hướng giúp người bị nạn và tôi đã làm hết sức của mình. Giả sử đứa bé lớn lên rồi trở thành một tên giết người hàng loạt, thì hành động của tôi vẫn được xem là tốt về mặt đạo đức vì ý hướng tốt đứng sau hành động ấy. Ngược lại, nếu tôi là một dược sĩ và giả tạo các dữ liệu nghiên cứu để công ty có thể được phê chuẩn một thứ thuốc mới, và tôi được thưởng nhiều tiền. Dữ liệu sai lạc của tôi làm cho thuốc này được phê chuẩn, và nó lại trở thành một thứ thuốc an toàn và chữa trị bệnh nhân rất tốt. Nhưng hành vi giả tạo của tôi là sai đạo đức, cho dù kết quả sau cùng là tốt. Đạo đức học bổn phận lý luận rằng tiêu chuẩn dùng để đánh giá đạo đức của một hành động hay một tính cách hệ tại một số đặc tính hình thức nào đó mà hành động này có formalism. Theo một lý thuyết như thế, một hành động chỉ là tốt về đạo đức nếu nó có tính chất là “có thể trở thành phổ quát”—mọi người trong cùng hoàn cảnh sẽ thực hiện. Như thế, để xác định một hành động là đạo đức, chúng ta phải giả định là mọi người cùng thực hiện hành động ấy. Ví dụ, nếu một mình tôi trốn thuế thu nhập thì chính phủ sẽ vẫn hoạt động bình thường, nhưng hành động trốn thuế của tôi là sai trái vì chính phủ sẽ sụp đổ nếu không ai đóng thuế thu nhập. Cuối cùng đạo đức học nhân đức virtues ethics quan niệm rằng một con ngưởi với cá tính tốt thì hành động hay phán đoán của họ sẽ thể hiện tính cách tốt của tác nhân. Do đó, qua thói quen dùng lý trí để chọn cái “trung dung” giữa bất cập và thái quá trong cuộc sống, chúng ta tạo nên một “cá tính thứ nhì” hầu mang lại hạnh phúc và thiện hảo cho cuộc sống. Nhân đức là sức mạnh giúp con người thể hiện tiềm năng cá nhân và trở thành loại người mà chúng ta muốn trở thành. Con người có nhân đức thì sẽ biết biện phân giữa các mục đích công cụ và nội tại, cùng với sự chọn lựa tốt nhất trong mọi hoàn cảnh. Các nhân đức bổ túc cho nhau, và cuộc sống là một tiến trình phát triển nhân đức không ngừng. Tại sao phải sống đạo đức? Một ví dụ cụ thể. Giả sử tôi đồng ý với xã hội rằng ăn cắp là sai, lấy tài sản của người khác là nghịch với đời sống chính trực. Rồi giả sử một hôm tôi đi trên con đường phố vắng vào ban đêm và nhặt được một cái ví với 10 triệu đồng, cùng với tên và địa chỉ của người mất cái ví ấy. Đạo đức học đòi hỏi tôi phải trả lại số tiền ấy cho người bị mất. Nhưng tôi suy nghĩ rằng, nếu tôi bỏ chiếc ví này vào túi mình thì cũng chẳng ai biết, và lấy số tiền ấy để mua một máy vi tính mới thật hấp dẫn biết bao. Tôi tự hỏi, liệu mình phải làm hành vi đạo đức là trả lại cái ví tiền, hay làm hành động hấp dẫn là có một cái máy vi tính mới toanh. Trong bóng tối không ai biết gì cả, thì tại sao tôi phải hành động đạo đức? Có lý do chính đáng nào để tôi chọn sống chính trực thay vì sống thú vị hơn hay không? Đạo đức liên hệ đến mục đích cuối cùng mà lối sống phong tục, tập quán, hạnh kiểm, của một người, quốc gia, thời đại đã được tự ý công nhận. Nó bảo ta những việc phải làm, giúp ý chí nhận ra những quy luật cần thiết, và giúp con người biết sử dụng tự do theo cách đúng đắn để đạt tới cuộc sống hạnh phúc. Nó còn là cuộc sống hợp với nhân phẩm, được thúc bách bởi lý tưởng và hướng dẫn hành động về những mục đích tạo nguồn bình an cho con người. Ta biết những điều thiện ấy một cách khách quan, vì chúng là tốt cho cộng đoàn và cá nhân. Nhưng điều thiện là tốt vì lý do nào, có phải vì nó tốt hay ta muốn chọn nó? Một người làm việc tốt nhưng với mục đích xấu có phải là người tốt không? Hoặc một người có ý tốt nhưng lại làm điều không tốt do không biết, liệu người ấy có phải là người xấu không? Như thế, cách lập luận khách quan trên đây cần phải được bổ túc bởi sự tìm kiếm tri thức của chủ thể luân lý, tức là cách chủ thể hiểu và lý giải cho động lực và hảnh vi của mình. Nhiệm vụ của đạo đức học là tìm các hướng dẫn để giúp chúng ta đạt được mục tiêu mà chúng ta giả thiết thì câu hỏi “Tại sao nên sống đạo đức?” nằm ở ngoài lãnh vực của triết học đạo đức. Chúng ta sống đạo đức có thể là vì những lý do thực tiễn, không thuộc phạm vi triết học sợ bị luật pháp trừng phạt; tránh làm mất danh giá và bạn bè; muốn lương tâm khỏi bị cắn rứt, etc.. Cũng có những lý do mang tính thần học làm hài lòng Thượng đế, vì đời sống mai sau, sợ bị trừng phạt, muốn lập công đức. Mặc khác, câu hỏi “Tại sao phải sống đạo đức?” cũng là một câu hỏi đạo đức học vì “sống chính trực” đồng nghĩa với “có một đời sống tốt.” Nếu sống đạo đức tức là đang tìm kiếm một đời sống “tốt hơn” những ham muốn tầm thường và cố gắng thăng tiến cuộc sống tới cùng một sự thiện “cao thượng” hơn. thì đó cũng chính là mục đích của đạo đức học vậy. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ ĐẠO ĐỨC HỌC Siêu hình học nghiên cứu các vấn nạn về thực tại và hữu thể Thế nào là tồn tại? Cơ cấu của hữu thể là gì? Đâu là bản chất hay hình thức của hiện hữu? Tri thức luận tra cứu về nền tảng cho tri thức Dựa trên cơ sở gì để chúng ta đi đến kết luận là có tri thức hay hiểu biết về một điều gì đó? Kinh nghiệm? Lý trí? Ý niệm? Trực giác? Hay phối hợp các yếu tố này? Đạo đức học chú tâm vào các hành vi nhân vị. Nên sống như thế nào là tốt? Nên chọn lựa hay phán đoán như thế nào là đúng? Dùng tiêu chuẩn nào để xác định tốt/xấu hay đúng/sai? Đâu là những điều kiện để chúng ta khẳng định một phán đoán đạo đức, hay chọn một giá trị đạo đức? I. THỜI CỔ HY LẠP Tìm kiếm đức hạnh A. Thời Tiền-Socrates Đạo đức là vấn đề tìm sự quân bình giữa hai bản năng “tinh thần” spirit và “dục vọng” passion của con người. Cũng giống như một kỵ mã phải điều khiển hai con ngựa chiến, mỗi con muốn kéo cỗ xe ngựa đi theo hướng riêng của nó, thì con người tìm hạnh phúc qua cách điều khiển cả hai đi theo hướng mình muốn. Tinh thần cao quá độ có thể trở thành hiếu thắng làm mất trí khôn, nhưng dục vọng quá nhiều cũng sẽ làm tê liệt khả năng phán đoán của con người. - Phái Khoái lạc Epicurus Thước đo hành động của chúng ta là mức độ thỏa mãn mà hành động đó mang lại. Mỗi người cần tìm cuộc sống thoải mái với một sự thỏa mãn quân bình, cần loại trừ những nỗi lo lắng vô căn cứ như Thượng đế hay hình phạt đời sau. - Phái khắc kỷ Stoic Muốn tìm hạnh phúc chúng ta cần kiểm soát những yếu tố nằm trong khả năng của mình thái độ, phán đoán, niềm tin; và tránh tìm cách thay đổi những điều ngoài tầm tay của chúng ta đau khổ, cái chết. Hạnh phúc con người chính là sự “khôn ngoan”, là biết cách sống cho phù hợp với những qui luật mà lý trí khám phá ra về vũ trụ và thế giới bên ngoài. - Phái hoài nghi Không có những chuẩn mực đúng hay sai tuyệt đối. Giác quan có thể đánh lừa chúng ta. Hạnh phúc tiềm tàng trong khả năng sống với sự tương đối và trong phạm vi những gì có thể đạt được. Đau khổ hay bất hạnh là những người đi tìm chuẩn mực đạo đức tuyệt đối. - Phái ngụy biện Chối bỏ mọi đạo đức truyền thống, con người là thước đo cho chính mình; dùng tài hùng biện để thắng trong những cuộc tranh luận và thuyết phục người khác nhìn nhận “chân lý” của mình. Chân lý thuộc về kẻ thắng. Tương đối và hoài nghi là hai chủ thuyết nền tảng của trường phái ngụy biện. B. Socrates 469-399 BC Phản biện lại nhóm Ngụy Biện, Socrates chủ trương rằng tri thức phải gắng liền với khả năng nhận thức và thực hành điều thiện hảo hầu mang lại hạnh phúc cho chính mình và tha nhân. Khủng hoảng trong xã hội thảnh Athens đến từ sự bại chiến với Persia đặt lại vấn đề về cách sống, đưởng lối huấn luyện và giáo dục giới trẻ, tương quan giữa sự thiện và niềm tin tôn giáo hay thần thánh? Khủng hoảng là thời gian thích hợp để suy tư về nền tảng đạo đức, truy vấn về cách chúng ta suy tư, phán đoán và tìm kiếm chân lý để đạt đến một cuộc sống thiện hảo. Giữa hai quan điểm sự thiện là “bẩm sinh” và là kết quả của “tài tranh cãi” thì Socrates chọn con đường thứ ba. Đó là con người qua đối thoại, phản tỉnh, biện chứng pháp, tiến trình tiệm tiến của nổ lực tìm chân lý chung, sẽ giúp chúng ta gia tăng ý thức về những “giả định” chung về đức hạnh. Qua hội thoại “Euthyphro”, Socrates cho thấy rằng các giá trị đạo đức thì không lệ thuộc vào thần thánh, tôn giáo, cảm tính, thói quen xã hội, quyền lực hay ý thức hệ. Nhận thức về sự vô tri của mình là khởi điểm của khôn ngoan. Socrates bị kết án là gây hoang mang trong giới thanh niên thành Athens, bị bỏ tù và bị ép uống thuốc độc mà chết. Ông từ chối đào tẩu vì lẽ nhà nước đại diện cho đạo đức tập thể vốn là nền tảng của chế độ dân chủ và kết quả của việc suy tư thuần lý và tôn trọng lý trí một cách tối đa. Socrates chấp nhận hình phạt của nhà nước dân chủ thì cũng như bất kỳ người lính nào cũng phải sẵn sàng chấp nhận cái chết khi ra chiến trận. Nhưng cái chết của Socrates cũng là một sự mỉa mai cho nền dân chủ dựa trên tranh cãi và hùng biện vốn đang che lấp một ý thức hệ ngụy biện của nhóm lợi ích nào đó. Socrates xác tín rằng lý trí có thể phát triển một số những nguyên tắc đạo đức vốn tiềm tàng trong trong cách chúng ta phán đoán về niềm tin, hành động và chọn lựa. Nhận ra sự vô tri của chính mình là khởi đầu của hành trình khôn ngoan. Khả năng phản tỉnh là “con đường vàng” dẫn đến tri thức thực sự. Con người, hãy tự biết mình! Mortals, Know thyself! C. Plato 428-348 BC -Thực thể tối hậu tồn tại trong thế giới ý niệm. Plato dùng mô hình toán học để diễn đạt tri thức. Ông thiết lập một nền tảng siêu hình nhằm đưa ra giải pháp cho những vấn nạn của Socrates. Thiện hảo và công lý tồn tại độc lập với chúng ta. Chúng ta là những linh hồn bị cầm tù trong thể xác, chúng ta có thể hồi tưởng lại tri thức về các “ý niệm” đã được tạc ghi vào linh hồn chúng ta trong quá khứ. Giáo dục e-ducare là tiến trình hồi tưởng lại các thị kiến về điều Thiện. Vì thế, sự thiện hảo, công bằng, đức hạnh, etc., là những ý niệm tuyệt đối, tồn tại ở thế giới ý niệm. Cho dù trong thế giới khả giác chúng ta chưa hề bắt gặp sự thiện tuyệt đối nhưng ta có thể dùng lý trí để hồi tưởng lại tri thức về các thực tại tuyệt đối này. Dụ ngôn “Cái Hang” Trong tác phẩm Nền Cộng Hòa, Plato dùng dụ ngôn Cái Hang để phân biệt ra hai tầm mức thực tại thế giới vĩnh cửu và thế giới tạm bợ. Tìm hiểu về Đạo Đức thì cũng như các nô lệ đang bị giam cầm nơi hang sâu, chỉ nhìn thấy hình bóng của những gì xảy ra chập chờn trên vách hang đá. Chỉ khi được giải thoát ra ngoài thì mới ý thức là sự tồn tại của mình trong thế giới khả giác trước đây chỉ là ảo ảnh của thực tại bất biến và vĩnh hằng bên ngoài hang tối. Ý nghĩa của dụ ngôn “Cái Hang” Bị trói buộc thân xác nặng nề vì vui thú nhục dục sẽ đè nặng xuống, ngăn cản suy tư đạo đức. Trong bóng tối thế giới nhỏ bé, thiếu kinh nghiệm, không sẵn sàng đón nhận tri thức. Bóng in trên tường mỗi người là thước đo cho chính mình, quan tâm đến mình, chấp nhận bất điều gì mà không biết phê phán. Ánh sáng bên ngoài và sự mù lòa ban đầu nỗi đau đớn khi học biết những chân lý mới, cảm xúc khó chịu khi ý tưởng của ta bị thách đố. Cần “từ bỏ bóng tối” thống trị bởi các đam mê và dục vọng. Nhận ra những bóng tối của chính mình để được tự do theo đuổi tri thức. Tri thức chân thật đòi hỏi sự kỷ luật, quay đầu khỏi các đam mê, và hồi tưởng lại những gì linh hồn đã biết. Trí khôn con người có phần lý tính và phần phi lý tính phần tiếp xúc với thân xác. Do đó hạnh phúc của con người sống trên đời này là dùng lý trí để điều khiển dục vọng và tinh thần. Tri thức luận của Plato gồm bốn bước đi lên hình ảnh, sự vật, toán học, ý niệm, tương đương với bốn mức độ nhận thức tưởng tượng, tin tưởng, suy gẫm và tri thức thật sự. D. Aristote 384-322 BC Aristote phê bình đạo đức học của Plato là lôi cuốn con người đi quá xa khỏi thực tại mình đang sống. Aristote cho rằng bản chất hình thức của sự vật không ở trong thế giới cách biệt ý niệm nhưng trong chính vật chất. Aristote dùng mô hình sinh học biết điều gì nghĩa là nhận ra các bộ phận của nó hoạt động như thế nào trong một toàn thể để nó phát triển hoàn toàn chức năng của nó. Mọi thực thể đều có bản chất và hình thức; hành động được hiểu theo ý hướng và mục đích. Điều mang lại hạnh phúc không hệ tại ở sự vật hay hành động nhưng là trong ý định hay mục đích. Như vậy “sự thiện” của một sự vật là điều kiện vốn giúp nó đạt đến hay hoàn thành ý định hay mục tiêu của nó. Điều kiện này chính là “điểm trung dung” giữa sự thái quá và bất cập. Nhân đức là tương quan đúng đắn giữa sự thái quá và khiếm khuyết khôn ngoan, can đảm. Nhân đức là thói quen chọn những gì tốt nhất để mình có thể phát triển hoàn thành chức năng cao nhất của mình, đó chính là lý trí. Tác phẩm Nicomachean Ethics là bản văn đầu tiên về đạo đức trong nền văn minh Tây phương. Aristote cho rằng không có hình thức nào có thể tồn tại tách biệt khỏi đối tượng. Không có sự thiện hảo nào tồn tại tách biệt khỏi kinh nghiệm sống hàng ngày. Chúng ta biết điều tốt nhờ vào việc quan sát cách thức người ta nỗ lực đạt được điều thiện. Tình bạn hữu chân thật mong ước điều thiện cho người khác chỉ vì họ mà thôi là động lực tối hảo cho việc vun trồng nhân đức. Trong khi tập nhân đức, tìm kiếm sự thiện hảo qua cách chọn cái trung dung, con người phải tận dụng lý trí. Do đó, đời sống lý trí có hai hướng song song theo đuổi chân lý trí thông minh và sự hiểu biết và theo đuổi nhân đức sự trung dung giữa thái quá và khiếm khuyết. Đây là mô hình “sinh học” bạn chỉ biết bản chất của một vật khi bạn nắm bắt được toàn bộ tiềm năng của nó. Vì con người là động vật có lý trí, tiềm năng lý trí sẽ đưa chúng ta đến hạnh phúc; trong tiến trình này, chúng ta có thể học biết điều thiện hảo. II. THỜI TRUNG CỔ đức tin và lý trí Vấn đề Lý trí nâng đỡ hay cản trở đức tin trong khi truy tầm nhận thức về điều đúng hay sai. Một mình lý trí có thể nắm bắt được bản chất của luân lý hay không? A. Thánh Augustine 354-430 ánh sáng nội tại Khuynh hướng nhị nguyên có hai loại nhận thức, hay hai thành đô. Thành đô Thiên Chúa và thành đô con người; thế tục đối ngược với thánh thiêng. Có hai trật tự tự nhiên khả giác, thành đô con người, công ích, thế tục và siêu nhiên khả tri, thành đô Thiên Chúa, vĩnh cửu. Vai trò của niềm tin Kitô, Giáo Hội, Kinh Thánh Đạo đức Kitô giáo hướng đến tìm kiếm những giá trị bất biến, vĩnh cửu. Triết học đưa đến sự hiểu biết còn thần học đưa đến sự khôn ngoan. Thánh Augustin viết hơn 700 tác phẩm, đáng lưu ý nhất là cuốn Tự thuật và Thành đô của Thiên Chúa. Tính nhị nguyên của thánh Augustine đời sống lý trí hướng đến hạnh phúc tạm thời, điều thiện tự nhiên và chóng qua, và đời sống đức tin đưa đến sự cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu, điều thiện siêu nhiên. Vì cuộc đời này chỉ là sự chuẩn bị cho đời sau cho nên không thể tìm thấy hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu ở đây. Con người sa ngã do nguyên tội nhưng vẫn còn ý chí tự do và trách nhiệm đối với các hành vi của mình. Vì lẽ đó, nhân đức có thể luyện tập được nhưng giá trị thực sự phải được thúc đẩy bởi niềm tin vào Thiên Chúa hằng hữu. Con người sống như khách lữ hành trong thế giới này. B. Thomas Aquinas 1225-1274 lý trí phối hợp với đức tin Lý trí đưa đến các nhân đức trí tuệ; nhưng đức tin đưa đến nhân đức đối thần. Lý trí là tiếng nói của lương tâm. Một mình lý trí thông thường có thể đạt đến hiểu biết quy luật tự nhiên. Tôma tái khám phá và Kitô hóa triết học của Aristote, tạo nên một sự hài hòa giữa nền đạo đức tự nhiên và đạo đức hướng thần. Phạm vi sáng tác của Tôma rất rộng, quan trọng nhất là tác phẩm Summa Theologica, và Summa Contra Gentes. Đạo đức tự nhiên bao gồm việc phát triển khả năng của lý trí đồng thời thực hành đời sống luân lý; đạo đức tự nhiên đưa con người đến hạnh phúc trần thế. Đạo đức hướng thần bao gồm việc đạt được các nhân đức hướng thần tin-cậy-mến nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Tôma cho rằng Luật tự nhiên – Luật siêu nhiên được viết trong tâm hồn – được khám phá bởi lý trí và trau dồi bởi lương tâm. Khi chấp nhận tính độc lập và khả năng đạt đến chân lý của lý trí, đạo đức học của Tôma có một lối nhìn mang tính khoa học hơn về con người. Sống đạo đức là biết sống tuân theo bốn qui luật luật vĩnh cửu, luật tự nhiên, luật xã hội, và luật Thiên Chúa. III. CÁC KHUYNH HƯỚNG CẬN ĐẠI 1. Luân lý “Tự Vệ” versus luân lý “Đồng Cảm” Hobbes 1588-1679 nhà tư tưởng đầu tiên tiếp cận đạo đức một cách hệ thống theo quan điểm khoa học. Trong tự nhiên, tự bản chất con người tìm kiếm sự bảo toàn cho chính mình. Trong tình trạng tự nhiên, đúng hay sai không tồn tại, không có luân lý. Chỉ khi xã hội dân sự hình thành và khi mọi người sẵn sàng đồng ý cống hiến trọn vẹn lòng trung thành cho đất nước thì đạo đức mới có thể thực hiện được. Nhà nước có thể trừng phạt những hành động ngăn trở hoặc ban thưởng cho những hành động cổ võ công ích và sự an toàn của người dân. Do đó, đạo đức học đối với Hobbes xuất phát từ nhu cầu tự vệ. David Hume 1711-1766 ngược lại với cái nhìn đạo đức mang tính cơ học và duy vật của Hobbes, Hume cho rằng cảm giác về sự đau đớn đưa chúng ta đến việc suy tư và hình thành nên những quan niệm về công lý và điều thiện, từ đó tạo nên một hệ thống các phán đoán luân lý. Luân lý có khía cạnh khách quan kết quả của hành động và chủ quan cảm giác về mức độ hài lòng mà người khác có được. Một mình lý trí không thể trả lời hết những vấn nạn luân lý, nhưng cần một “sự đồng cảm luân lý” trong việc chọn lựa điều gì hữu ích hay hài lòng để hành động. 2. Đạo đức học “Bổn Phận” versus Đạo đức học “Hậu Quả” Emanuel Kant deontology, bổn phận Con người muốn được tự do theo đuổi lý tưởng đạo đức của mình mà không bị trói buộc bởi bất cứ áp lực gì từ bên ngoài. Do đó, chúng ta cảm thấy có bổn phận và trách nhiệm làm “đúng” hay làm theo “lẽ phải” dù điều đó mang lại lợi ích hay không lợi ích cho mình. Vì muốn được tự do và đạt đến hạnh phúc thực sự, chúng ta tuân theo “mệnh lệnh tuyệt đối”. Điều cao thượng nhất trên đời này chính là ý chí muốn thực hành điều đúng bất kể nó có mang lại hậu quả tốt cho mình hay không “The highest good is the good will.” John Stuart Mill consequentialism, chủ thuyết hậu quả. Hậu quả là nguồn gốc của đạo đức học vị lợi. Đạo đức nhắm vào những giá trị có thể gia tăng tối đa hậu quả “tốt nhất” cho mọi người. Hành vi đạo đức là hành vi mang lại lợi ích tối đa cho nhiều người nhất. Đạo đức vị lợi là sự trung dung giữa vị tha và vị kỷ, luôn tìm hành vi mang đến hậu quả “tốt” thay vì “đúng”, cho nên nhiều khi hậu quả của “hành vi” vị lợi và hậu quả của “nguyên tắc” vị lợi có thể mâu thuẫn nhau. Do đó cần phải có sự cân bằng giữa hai khía cạnh này của vị lợi. “Luôn luôn phải chọn hành vi mang lại lợi ích tốt nhất cho nhiều người nhất” Mill. IV. CÁC VẤN ĐỀ TRONG ĐẠO ĐỨC HỌC HIỆN NAY 1. Đạo đức giới tính gender ethics Khám phá những nguyên tắc đạo đức “vô hình” nhưng bất công đối với phụ nữ hay người đồng tính đang tiềm tàng trong sinh hoạt của nhiều tầng lớp xã hội, ước khế lao động, tổ chức tôn giáo, và cách đối xử giữa con người với nhau. Đạo đức học giới tính muốn tìm những tiêu chuẩn đạo đức công bằng hơn về giới tính, và tôn trọng nhân phẩm của mọi người trong mọi bối cảnh văn hóa, xã hội, tôn giáo và ngôn ngữ. 2. Đạo đức môi sinh environmental ethics Trong tiến trình phát triển kinh tế và xã hội, môi trường đã bị khai thác và lạm dụng đến mức gây tổn hại lâu dài đến sức khỏe con người và sự sống trên hành tinh này. Đạo đức học môi sinh cố gắng tìm những nguyên tắc đạo đức có khả năng hồi phục lại sự quân bình giữa phát triển kinh tế và nhu cầu của con người với sự sinh tồn của các sự sống khác trong tự nhiên. 3. Đạo đức học sự sống bio-ethics & medical ethics Những tiến bộ gần đây và trong ngành y khoa công nghệ sinh sản IVF, liệu pháp gen, chọn lựa tiền sản, nhân giống vô tính, kéo dài sự sống, khả năng tạo ra những hỗn hợp người-động vật, etc. đã thử thách y đức Hippocrates và luân lý Kitô giáo cổ điển. Kỹ thuật tân tiến về chăm sóc và kết thúc sự sống đã biến quyết định giữa bác sĩ và bệnh nhân thành những tranh cãi công chúng về các vấn nạn rất nhân bản về sự sống con người lúc ban đầu cũng như giá trị của cuộc sống của người khuyết tật. Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi ta xét khía cạnh bảo vệ động vật và sinh thái học. Các nhà đạo đức sinh học đang bận rộn tìm những nguyên tắc đạo đức hầu để hướng dẫn các chọn lựa hay phán đoán không chỉ trong y khoa và sinh thái học mà cả về các giới hạn của thí nghiệm khoa học. 4. Siêu học thuyết về đạo đức meta-ethics Trong thế kỷ gần đây, các triết gia bắt đầu chú tâm đến khía cạnh logic, ngôn ngữ của lý luận, tiến trình suy tư và hành động trong ngành đạo đức học. Chuyên gia nghiên cứu siêu học thuyết về đạo đức không đưa ra đề nghị chúng ta nên phán đoán như thế nào, nhưng trái lại tìm kiếm tri thức về bản chất của ngôn ngữ đạo đức, về cơ cấu của phán đoán đạo đức, và mối tương quan của các loại đạo đức học. Linh Mục Josheph Nguyễn Đoàn Tân, Ofm Tài liệu tham khảo Joseph Nguyễn Đoàn Tân, Đạo Đức Học Tổng Quát, NXB Phương Đông, 2016
Joseph Tân Nguyễn, ofm Hạnh phúc con người không chỉ là thỏa mãn các nhu cầu bản năng nhưng còn hệ tại vào các giá trị đạo đức mà chúng ta tin sẽ mang lại một cuộc sống nhân bản cho chúng ta. Nhưng các giá trị đạo đức có thật không, hay chỉ là những thói quen mà truyền thống và xã hội áp đặt lên cá nhân, tạo nên mặc cảm tội lỗi nếu ta không tuân theo? Làm sao biết giá trị đạo đức nào sẽ mang lại hạnh phúc cho đời mình? Bản chất của chúng là tương đối hay tuyệt đối? Khách quan hay chủ quan? Đạo đức đến từ tôn giáo hay văn hóa? Bất biến hay thay đổi theo luật tiến hóa? Nếu con người bị điều kiện bởi các yếu tố tâm lý và thể lý thì thật sự có tự do chọn lựa các giá trị đó không? Cuối cùng, tại sao chúng ta nên sống đạo đức? Triết học đạo đức nghiên cứu về các chủ đề rộng lớn và quan trọng này. PHẠM VI TRUY VẤN CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC Lịch sử triết học đạo đức đã phát triển theo hai chiều hướng sau đây. Chiều hướng thứ nhất được gọi là“đạo đức quy chuẩn” prescriptive ethics. Lãnh vực này thống trị triết đạo đức suốt hơn hai kỷ nguyên qua - khởi đầu bằng những truy vấn về mối tương quan giữa tri thức và đức hạnh của Socrates 469-399 BC. Chiều hướng này nghiên cứu các giá trị, nguyên tắc và tiêu chuẩn luân lý, hầu để giúp chọn lựa các hành vi sao cho phù hợp với mục tiêu mang lại “hạnh phúc” cho con người. Đạo đức học quy chuẩn trả lời câu hỏi, “một cá nhân nên hành xử như thế nào” bằng cách đưa ra các tiêu chuẩn đạo đức như vị kỷ, vị lợi, luật tự nhiên, bổn phận, nhân đức, Mỗi tiêu chuẩn đạo đức sẽ bao gồm các quy tắc đặc thù để bảo đảm các giá trị nền tảng của chúng được thể hiện cách toàn vẹn. Chiều hướng thứ hai mang nặng tính lý thuyết, thường được gọi là đạo đức học siêu hình meta-ethics. Đây là một hiện tượng mới - tuy đã có nguồn gốc từ triết Cổ Hy Lạp - được khai thác chỉ trong thế kỷ vừa qua. Đạo đức học siêu hình không đề nghị chúng ta nên hành xử như thế nào, nhưng tra cứu các hình thức lý luận trong suy tư đạo đức. Đạo đức học siêu hình khám phá về bản chất và cấu trúc của ngôn ngữ đạo đức, mối tương quan giữa các khẳng định trong một hệ thống luân lý, các nền tảng của tri thức đạo đức, và những điền kiện để lý luận đạo đức được hợp lý. Tuy nhiên, triết học không phải là môn học duy nhất xem xét cách cư xử và tính cách đúng đắn của con người. Thần học cũng bàn về các vấn đề cơ bản này. Trong khi thần học luân lý dựa trên viễn tượng đức tin tôn giáo vốn đã được cộng đoàn tín hữu chấp nhận thì triết học đạo đức phải lý luận hoàn toàn dựa trên lý trí và kinh nghiệm. Đối với các tín hữu, giáo lý không thể bị tranh cãi ngoại trừ cách giải thích về chúng, thì trong triết học đạo đức mọi câu hỏi về đạo đức đều có thể được đem ra bàn luận - ngay cả câu hỏi liệu có một đạo đức học đúng hay không? Tuy nhiên, có nhiền học giả vừa là triết gia vừa là thần học gia Augustine, Tôma, nhận thấy có sự hài hòa giữa thần học luân lý và triết học đạo đức, mặc dù các điểm xuất phát của hai môn học này thì cơ bản khác nhau. Hạn từ “ethics” thường được dùng trong phạm vi triết học đạo đức, còn “morality” thì trong khuôn khổ của thần học luân lý. Từ “ethics” bắt nguồn từ tiếng Hy lạp “ethos”, có nghĩa là “phong tục” số ít và “tính cách” số nhiều. Từ “morality” được dịch từ tiếng La tinh “mos” số nhiều mores cũng mang ý nghĩa tương đương như trong tiếng Hy Lạp. Từ các nghĩa gốc này chúng ta thấy đạo đức học liên quan đến cả về “hành vi” phong tục, thói quen lẫn sự hình thành nên “tính cách” loại người, cá tính mà chúng ta muốn trở thành. Mối tương quan này rất quan trọng trong sự phát triển đạo đức học. Vì lẽ, tính cách character của chúng ta được hình thành chủ yếu từ những thói quen hành động actions của mình. Mặt khác, thói quen thực hành các hành vi tốt sẽ giúp chúng ta tối đa hóa khả năng chọn lựa điều tốt nhất trong mọi hoàn cảnh, và như thế sẽ tạo nên một “tính cách thứ nhì” cho mình virtues. Các nghĩa gốc này cũng giúp chúng ta hiểu tại sao chúng ta gọi đạo đức học là môn học về cách phải sống đời mình như thế nào, phải cư xử và sở hữu những tư cách đúng đắn nào để trở nên một con người có nhân bản. Triết học Tây phương, từ Socrates cho đến Wittgenstein, đều nhận thấy truy vấn đạo đức học là một nguồn phát sinh chính yếu cho các vấn nạn lớn trong triết học. Hầu như trong mọi nền văn hóa tồn tại trong lịch sử nhân loại đều có những nỗ lực tìm kiếm những gì mang lại hạnh phúc cho con ngưởi. Ai cũng muốn biết thế nào là cuộc sống tốt. Đâu là những tư cách đáng tôn trọng nơi con người? Có thể đòi hỏi trách nhiệm hay bổn phận gì từ các cá nhân và tập thể có tương quan huyết thống, xã hội, hay quốc gia? Hiểu biết về đạo đức có thật sự đưa đến hành vi đạo đức hay tạo nên một tư cách nhân bản không? Triết học Hy Lạp cổ điển đã nâng các câu hỏi này lên một mức độ phản tỉnh sâu sắc hơn. Họ hỏi Liệu lý trí con người có khả năng trả lời các câu hỏi trên đây một cách khách quan không? Nếu tri thức đạo đức có thật thì chúng sẽ đến từ đâu? Có thể có các giá trị đạo đức phổ quát, độc lập khỏi mọi giới hạn văn hóa, tôn giáo, tập quán hay luật lệ xã hội không? Một khi chúng ta suy tư phản tỉnh như thế thì chúng ta đang bước vào ngưỡng cửa của triết học đạo đức. Điều đáng ngạc nhiên là mức độ cấp bách và thiết yếu mà triết học Hy Lạp ngay từ ban đầu đã gán cho các câu hỏi này. Họ gắn liền truy vấn đạo đức với sự tồn tại và thịnh vượng của nhà nước, trật tự trong xã hội, và hạnh phúc con người. Nếu chúng ta muốn biết thế nào là một bài hát hay hoặc một bác sĩ giỏi thì chúng ta cần tìm các “quy chuẩn” trong mỗi ngành để xác định câu trả lời. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục hỏi liệu các “quy chuẩn” này đóng góp thế nào cho nỗ lực xây dựng hạnh phúc và tìm kiếm ý nghĩa chân thực cho cuộc sống thì chúng ta đang truy vấn đạo đức. Phạm vi của truy vấn đạo đức sẽ bao gồm cả về trách nhiệm, bổn phận, tư cách và hành vi nhân bản. Đạo đức học lưu tâm đặc biệt về hậu quả tổng thể của hành vi hay chọn lựa trên nỗ lực tìm sự thiện hảo cho con người. YẾU TỐ CẢM XÚC TRONG PHÁN ĐOÁN ĐẠO ĐỨC Đạo đức học đóng vai “điều phối” như trên là vì đạo đức học ưu tư đặt biệt về cách chúng ta phán đoán các hành vi nhân bản trong tương quan với nỗ lực xây dựng hạnh phúc con người. Trong khi lôgic phán đoán về tính hợp lý của tiến trình suy tư - hành vi có thống nhất với niềm tin hay không - thì đạo đức học nhắm vào mối tương quan giữa động lực và hậu quả của một hành vi và ảnh hưởng tổng thể của nó trên tư cách làm người trong xã hội. Nói như thế có nghĩa là đạo đức học vẫn còn mang nhiều yếu tố cảm xúc đến từ phản ứng của tha nhân về cách sống và ứng xử của chúng ta. Từ những phản ứng này, chúng ta có thể biện phân những động lực vốn sẽ tạo nền tảng cho cách chúng ta đánh giá một cá nhân. Ba yếu tố cảm xúc căn bản mà chúng ta cần xét ở đây là trách móc, ca ngợi và ước muốn. Khi quan sát các yếu tố cảm xúc này chúng ta sẽ khám phá ra các manh mối cho tính phổ quát của phán đoán đạo đức. Trước tiên, “trách móc” là một thái độ thông thường nhất trong phán đoán đạo đức. Khi ta khiển trách một cá nhân vì hành vi bất xứng của họ, ta không chỉ cho rằng hành vi của người đó không đúng mà còn cả động lực của họ là không tốt. Khi ta không chấp nhận hành vi của một chủ thể trưởng thành tức là ta đang đánh giá về tư cách của người đó, và cho rằng người đó “có lỗi” và phải chịu “trách nhiệm” về hậu quả của hành vi của họ. Cho dù cảm xúc sân hận có thể không hiện diện, nhưng trách móc đã là một hình thức trừng phạt rồi, ít nhất qua thái độ và sự đánh giá của mình về cá nhân đó. Mức độ “trừng phạt” thì tùy theo trách nhiệm và tính “có lỗi” của chủ thể. Một hệ luận có thể rút tỉa được là khi chúng ta cho rằng chủ thể phải chịu trách nhiệm phần nào cho hậu quả của hành vi của mình, thì việc chúng ta khẳng định họ đáng bị khiển trách không phải là hoàn toàn vô lý. Vì lẽ, bên dưới sự trách móc có một trực giác cho rằng mọi người có bổn phận theo đuổi một mức độ trưởng thành luân lý nào đó. Tương tự như trên, “ca ngợi” hay khen thưởng cũng để lộ một trực giác về tư cách và sự trưởng thành luân lý mà ta ước muốn mọi người nên có. Có những giá trị mà mọi người ao ước được sở hữu như “cá tính thứ nhì” như can đảm, nhân từ, cao thượng, sáng tạo, kiên nhẫn, tiết độ, khôn ngoan, tháo vác, lanh lẹ, tế nhị, khỏe mạnh, sung túc, sắc đẹp, Chúng ta có thể tranh luận về mức độ thiết yếu của mỗi giá trị trên đây, tuy nhiên, mẫu số chung là chúng có khả năng đóng góp vào hạnh phúc và sự viên mãn của đời sống con người. Như vậy, khi chúng ta cho rằng một số hành vi hay tư cách đáng khen ngợi, tức là ta đang ý thức về những giá trị quan trọng cho hạnh phúc của cuộc sống. John Stuart Mill - cha đẻ của trường phái thực dụng - không sai khi cho rằng “hạnh phúc là sự ước muốn căn bản nhất của con người trong cả lý thuyết lẫn thực hành”. Cuối cùng, cả trách móc và ca ngợi đều tiềm tàng một ước muốn rằng con người là một chủ thể tự do, có trách nhiệm cho hành vi nhân bản và sự chọn lựa của mình. Chúng ta “ao ước” rằng mọi người chung quanh mình sống trung thực, nhân đạo, tôn trọng sự công bằng và tự do của tha nhân. Người ta không lên án một đứa trẻ hay một bệnh nhân tâm thần, nhưng chỉ một cá nhân trưởng thành vì một hành vi vô luân của họ. Chúng ta ước muốn mọi chủ thể trưởng thành thật sự dùng tự do chọn lựa khi hành động, cho dù cá nhân ấy có thể thiếu khả năng kiềm chế các cám dỗ hoặc bị áp lực tâm lý và xã hội. Tuy nhiên, tự do sẽ là điều kiện tiên quyết và tất yếu cho mọi phán đoán đạo đức, vì thiếu tự do thì phán đoán đạo đức trở thành vô nghĩa. Như thế, qua trách móc, ca ngợi và ao ước chúng ta có thể giả định là con người là một chủ thể có tự do chọn lựa và phải chịu trách nhiệm cho hành vi của mình. Mục tiêu cơ bản của đạo đức học là cung cấp các giá trị khách quan liên quan đến viễn tượng đạo đức của mình. Nhưng khi truy vấn về lý luận đạo đức thì chúng ta phải trả lời cho câu hỏi cuối cùng, đó là, “Tại sao tôi phải sống đạo đức?” Giả sử một hôm trên đường phố vắng, tôi nhặt được một cái ví với một số tiền lớn cùng với tên và địa chỉ của người mất cái ví ấy. Trong vài giây phút, tôi có thể phân vân mình có nên dùng số tiền “may mắn” này cho mình. May mắn đối với tôi nhưng lại kém may mắn cho người đánh mất ví tiền. Nếu tôi không trả ví tiền lại cho khổ chủ thì hành vi của tôi cũng không ai hay biết. Như vậy, có lý do chính đáng nào để tôi chọn sự chính trực thay vì tìm lợi ích cho mình không? Suy tư như thế này đưa ta đến việc nhận ra mục đích cuối cùng của đạo đức là sự thiện. Sống đạo đức là sống theo điều thiện, là hành động đúng không vì tư lợi. Nhưng sự thiện là gì? Sự thiện đối với ai? Điều thiện là tốt vì tự bản chất của nó, hay là vì nó sẽ mang lại lợi ích cho ta? Cho dù ta có thể tìm được một định nghĩa khách quan và phổ quát cho sự thiện đi nữa thì trong thực tế, một người làm một việc thiện nhưng với mục đích xấu có phải là người tốt không? Hoặc người khác có ý định tốt nhưng lại làm điều xấu do họ không biết, liệu người ấy có phải là người xấu chưa? Mặc khác, nếu một người làm điều xấu nhưng mang lại hậu quả tốt, thì ta nên phán đoán như thế nào? Lấy ví dụ, một tên trộm khi đập cửa kính lén vào một nhà, thấy một bà cụ nằm bất động dưới đất, bị ngộ độc vì khí carbon dioxide tràn ngập trong nhà bị đóng kín vì đang dùng lò sưởi mùa đông. Bỗng nhiên bà cụ bắt đầu cử động, và hệ thống báo động cũng âm thầm liên hệ với cảnh sát, và tên trộm cuối cùng bị bắt. Điều mà tên trộm không biết là hành vi đập cửa kính vô tình làm cho khí độc thoát ra và khí sạch tràn vào nhà và cứu sống được bà cụ. Như vậy, hành vi xâm phạm gia cư bất hợp pháp này là tốt hay xấu? Đáng khen hay đáng trách? Đúng hay sai? Như thế, định nghĩa khách quan của sự thiện tự nó sẽ không thể trả lời câu hỏi “Tại sao ta phải sống đạo đức”. Nhiệm vụ của đạo đức học là giúp chúng ta đạt được mục tiêu đã được giả định trong lý tưởng hạnh phúc của mình khi phân biệt giữa điều thiện và ác. Nhưng đạo đức học không thể cung cấp câu trả lời khách quan cho câu hỏi “Tại sao ta phải chọn điều thiện?” Đây là câu hỏi nằm ngoài phạm vi của triết học và là giới hạn của lý luận đạo đức. Nó thuộc về lãnh vực thực tế và chỉ có ý nghĩa một khi chúng ta chấp nhận việc theo đuổi sự thiện gắn liền với nỗ lực tìm hạnh phúc cho đời mình. SỰ THIỆN VÀ BẢN TÍNH CON NGƯỜI Đạo đức học là môn nghiên cứu về cách chúng ta phải sống hay chọn lựa sự thiện hảo như thế nào để đạt đến hạnh phúc. Nhiều người cho rằng sự thiện cao cả nhất của con người là thể hiện tiềm năng và bản tính của mình một cách trọn vẹn. Nhưng “bản tính con người” là gì? Và làm thế nào chúng ta thể hiện được bản tính ấy? Nếu cho rằng con người là “con vật có lý trí” thì đạo đức là tận dụng lý trí để mang lại hạnh phúc cho mình. Hoặc, nếu bản tính con người là tìm kiếm sự sung mãn cho tất cả mọi người, thì đạo đức chính là đạt đến các điều vị lợi ấy. Như thế, việc bảo vệ và phát huy các “khuynh hướng tự nhiên” của bản tính con người là điều thiện hảo và đáng theo đuổi. Đây là cơ sở cho sự phát triển của đạo đức học “luật tự nhiên”. Trong vở kịch “Antigone” của Sophocles Wyckoff, 1959, người hùng Antigone nại đến qui luật cao cả này để biện minh cho hành vi chôn xác người anh ruột, cho dù có lệnh vua cấm vì người anh đã nổi loạn chống lại chính quyền thành Thebes. Hãy xem đoạn đối thoại sau đây -Vua Creon Hãy nói cho ta biết, nhà ngươi có biết lệnh vua cấm làm việc này không? -Antigone Lẽ dĩ nhiên tôi biết. Lệnh vua rất rõ ràng. -Vua Creon Sao nhà ngươi vẫn coi thường lệnh vua? - Antigone Đối với tôi, lệnh này không đến từ Thần Zeus và cũng không do Thần Công lý hay do các vị Thần dưới trướng Zeus ban ra. Hơn nữa, tôi không nghĩ rằng luật của nhà vua, trong thân phận là con người, lại có thẩm quyền cao hơn luật của Thần Minh vốn đã có tự muôn đời. Giá trị của luật các Thần Minh đã có từ hôm qua, tiếp tục hôm nay và mãi mãi và không ai thật sự biết chúng đã bắt đầu từ thủa nào... Phản ứng và lý luận của Antigone trên đây cho thấy ngay từ thủa ban đầu của triết học, con người đã nhận ra lương tâm và lý trí là nền tảng tất yếu cho phán đoán đạo đức, căn bản hơn cả mọi qui luật tôn giáo hay luật pháp nhà nước. Trong lương tâm con người đã được khắc ghi một quy luật luân lý có từ đời đời và con người biết nó qua lý trí. Con người là một chủ thể luân lý và trên nền tảng những gì “tự nhiên đối với con người”, triết Hy Lạp Cổ đại đã khai triển một số mô hình đạo đức học, rất quan trọng cho sự phát triển của triết học Tây phương sau này. Tuy nhiên, không phải mọi triết gia đều đồng ý rằng đạo đức học cần phải được xây dựng trên bản tính con người. Có thể họ cho rằng bản tính con người cơ bản là ích kỷ hoặc chưa hoàn toàn và đạo đức là khắc phục khuynh hướng vị kỷ tự nhiên đó. Có triết gia cho rằng giá trị đạo đức cơ bản là thể hiện bản tính độc đáo riêng qua các chọn lựa tự do của chủ thể. Có giả thuyết cho rằng người khác phái không thể có chung bản tính và như thế phụ nữ cần thể hiện bản tính mình cách độc lập và sáng tạo, không phải theo mô hình của phái nam. Vì thế, khó mà đạt đến một quan điểm chung hay sự thống nhất về “bản tính con người”. Trong thời Cận đại, đạo đức học đã chuyển mình từ một môn học về hạnh kiểm và tính cách đúng đắn của bản tính con người sang một khoa nghiên cứu về các hình thức hay nguyên tắc cần thiết cho việc đánh giá hành vi đạo đức. Nhiều phạm trù đạo đức học mới đã được đưa ra như hậu quả consequentialism, ý định intentionality, hình thức formal, bổn phận deontology, và nhân cách character. Trước tiên, thuyết “hậu quả” là khuynh hướng đánh giá một hành động hay tính cách tùy theo khả năng chúng thăng tiến hay gây tổn hại đến hạnh phúc con người. Nhưng “ý định” cũng là yếu tố không kém quan trọng, vì một người có thể làm việc từ thiện mang lại nhiều kết quả tốt cho người nghèo, nhưng với tham vọng chính trị hay ý đồ bất chính thì hành vi của họ chưa chắc là cao thượng. Nếu cả hai khuynh hướng ở trên đều nhắm vào thực chất của hành vi, thì khuynh hướng thứ ba nhắm vào “hình thức luân lý phổ quát” đúng một hành vi. Một hành động chỉ là đúng nếu nó là hành động mà ta có thể ước ao trung thực rằng mọi người trong cùng hoàn cảnh sẽ thực hiện, và ta có bổn phận phải tuân thủ hình thức luân lý phổ quát của nó. Ví dụ, theo Kant, hành vi gian lận khi làm bài thi là sai vì “hình thức luân lý” của hành vi đó không thể phổ quát hóa được; nó sẽ bào mòn ý định của người muốn gian lận. Cuối cùng, quan điểm “nhân cách” cho rằng hành động chỉ là cách diễn tả của một cá tính đã được hình thành nơi tác nhân. Do đó, đạo đức học nên nhắm vào việc rèn luyện nhân cách thay vì cân nhắc về các khía cạnh thực chất của hành vi. Ngoài ra, đạo đức học còn có các thử thách khác. Nếu luân lý morality xuất phát từ những thói quen mores của con người sống trong xã hội thì phán đoán đạo đức lại không thể hoàn toàn tuyệt đối hay hoàn toàn tương đối. Từ phái Ngụy biện cho đến Nietzsche đã cho thấy giá trị đạo đức luôn luôn bao hàm các yếu tố chủ quan. Do đó, có cách nào bênh vực cho tính khách quan của phán đoán đạo đức không? Mặt khác, mọi suy tư và hành vi con người đều có nguồn gốc và bị chi phối bởi các yếu tố thể lý, tâm lý hay bối cảnh xã hội. Như vậy, hành vi con người bị tiền định và không hoàn toàn tự do thì làm sao ta có thể có phán đoán đạo đức một cách trung thực được? Hơn nữa, sự hiểu biết và tri thức đạo đức của con người thì thay đổi và tiến hóa theo thời gian, như vậy các phán đoán đạo đức của truyền thống còn đúng không? Tiến hóa có loại bỏ các giá trị đạo đức cổ điển không? ĐẠO ĐỨC HỌC VÀ CÁC KHOA HỌC KHÁC Các nhà xã hội học tiếp cận đạo đức từ góc độ mô tả hay tường thuật. Họ đưa ra những giả thuyết phổ quát để giải thích hành vi và các chọn lựa của cá thể hay tập thể trong xã hội và dùng cách giải thích này để làm sáng tỏ quan điểm đạo đức của các cá thể hay tập thể đó. Nói chung, khoa xã hội học tránh đề nghị một hệ thống luân lý hay xử lý nào cho xã hội, nhưng nếu họ bước vào phạm vi này thì họ trở thành các triết gia đạo đức học. Nhà nghiên cứu giáo dục có thể tìm cách áp dụng các học thuyết đạo đức nào cho thích hợp với quan điểm giáo dục của họ. Có những triết gia như Plato đã đi sâu hơn, khai triển về các chủ đề giáo dục đạo đức. Một nhà giáo dục sẽ cẩn thận cân nhắc về hậu quả và cách thức áp dụng đạo đức học trước khi đi đến quyết định chọn lựa. Nhưng họ không bận tâm về bản chất, ngôn ngữ hay cách lý luận của đạo đức học như triết học đạo đức. Thần học cũng khai thác các học thuyết đạo đức và hệ thống phán đoán cho thích ứng với truyền thống tôn giáo. Nhưng lý luận của thần học luân lý thì dựa trên “mạc khải” vốn đã được cộng đoàn các tín hữu thừa nhận rồi. Trong khi đó, triết học đạo đức dựa trên lý trí và nới rộng quan điểm của mình để bao gồm các lãnh vực rộng rãi hơn tôn giáo. Mục đích của triết học đạo đức là xác định tính nhất quán và hợp lý của các mô thức dùng trong lý luận đạo đức. Các nhà làm luật, chính quyền hữu trách cũng tra cứu mối tương quan giữa đạo đức học và pháp luật. Nhưng luật pháp và đạo đức là hai lãnh vực khác nhau. Hành vi trái với đạo đức không nhất thiết phải là vi phạm pháp luật cha mẹ nói dối với con cái. Hoặc hành vi phạm pháp chưa hẳn là xấu dùng xe không xin phép chủ để chở bệnh nhân đi cấp cứu. Tuy chính trị gia có thể phản đối việc “luật hóa” luân lý nhưng họ vẫn dùng triết đạo đức như nền tảng cho việc chú giải luật pháp hay bênh vực cho quan điểm của họ. Tài liện tham khảo Đạo Đức Học Tổng Quát. Joseph Tân Nguyễn, ofm. Nhà Xuất Bản Phương Đông, TP HCM, 2016.
- Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và không trừ lĩnh vực nào. Đạo đức khác với những hình thức điều chỉnh hoạt động cộng đồng khác pháp quyền, những quy chế hành chính sản xuất, những sắc lệnh nhà nước, những truyền thống dân tộc… ở phương thức luận chứng và thực hiện những yêu cầu của mình. Trong đạo đức, sự cần thiết xã hội, những nhu cầu, lợi ích của xã hội hoặc của các giai tầng biểu hiện dưới hình thức những quy định và những sự đánh giá đã được mọi người thừa nhận và thành hình một cách tự phát, được củng cố bằng sức mạnh của những “tấm gương” của cộng đồng, của thói quen, phong tục, dư luận xã hội. Cho nên, những yêu cầu của đạo đức mang hình thức bổn phận phải làm không riêng một ai, như nhau đối với tất cả, nhưng không chịu sự ra lệnh của ai cả. Những yêu cầu này có tính chất tương đối bền vững. Chúng khác phong tục đơn giản hoặc truyền thống đã được duy trì bởi sức mạnh của một trật tự đã ổn định, ở chỗ chúng có cơ sở tư tưởng dưới hình thức quan niệm về việc con người phải sống và phải cư xử như thế nào. Đạo đức khác pháp luật ở một số điểm căn bản. Thứ nhất, việc mỗi người thực hiện những yêu cầu đạo đức là được tất cả mọi người kiểm tra, hơn nữa, uy tín đạo đức của một cá nhân không hề gắn liền với bất kỳ quyền hạn chính thức nào. Thứ hai, việc thực hiện các yêu cầu đạo đức chỉ được phê chuẩn bằng những hình thức tác động tinh thần nhận xét của xã hội, tán thành hoặc lên án những hành vi đã được thực hiện. Điều này quy định vai trò của ý thức trong đạo đức là tương đối lớn hơn so với những hình thức kiểm tra khác của xã hội; đồng thời, ý thức đó có thể biểu hiện dưới hình thức duy lý của những khái niệm và phán đoán, cũng như dưới hình thức cảm xúc của tình cảm, động cơ, ham muốn. Bên cạnh ý thức xã hội, ý thức cá nhân cũng đóng một vai trò không kém phần quan trọng trong đạo đức. Dựa vào những quan niệm đạo đức do xã hội đề ra, lĩnh hội những quan niệm đó trong quá trình giáo dục, với mức độ đáng kể, cá nhân có thể tự điều chỉnh hành vi của mình và tự nhận định về ý nghĩa đạo đức của tất cả những gì diễn ra xung quanh. Nhờ vậy, trong đạo đức, cá nhân thể hiện không chỉ với tư cách là khách thể, mà còn với tư cách là chủ thể có ý thức của sự kiểm tra xã hội, có nghĩa là nhân cách đạo đức. Vốn là một thành tạo xã hội phức tạp, đạo đức bao gồm hoạt động theo quan điểm nội dung và động cơ của nó việc mọi người thừa nhận phải cư xử như thế nào đó, hành vi của một tập hợp người, phong tục; những quan hệ đạo đức điều chỉnh hoạt động đó và được biểu hiện trong những hình thức khác nhau của bổn phận, của yêu cầu đối với con người lương tâm, nghĩa vụ, phẩm cách, tiêu chuẩn đạo đức, trách nhiệm; ý thức đạo đức phản ánh những quan hệ trên ở dạng những quan niệm thích hợp những tiêu chuẩn, những nguyên tắc, những lý tưởng xã hội và đạo đức, những khái niệm thiện ác, công bằng và bất công. Tất cả những hình thức này của ý thức đạo đức được hợp nhất thành hệ thống được sắp xếp một cách logic cho phép không chỉ quy định, mà còn luận chứng và đánh giá một cách nhất định những hành động đạo đức. Áp dụng vào những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong đạo đức hình thành những quy tắc đặc biệt đạo đức lao động, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức sinh hoạt, đạo đức gia đình… mà những quy tắc này chỉ hợp thành những lĩnh vực tương đối độc lập có một luận cứ thống nhất của đạo đức. Đạo đức là một hiện tượng mang tính lịch sử. Xuất hiện vào những trình độ hình thành ban đầu của xã hội loài người, đạo đức được phát triển trong tiến trình biến đổi các quan hệ về kinh tế và các quan hệ xã hội khác, trong tiến trình tiến bộ văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của loài người. Bên cạnh những yếu tố chung cho loài người, đạo đức bao gồm những tiêu chuẩn, những nguyên tắc, những lý tưởng… có tính chất nhất thời về lịch sử và có tính chất của một cộng đồng người cũng như giai tầng cụ thể trong xã hội. t/h Triết Học – - About us This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. > TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ > TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC CƠ SỞ HẠ TẦNG - KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG > TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC BỘ LẠC - BỘ TỘC > 12 CUNG HOÀNG ĐẠO BẢO BÌNH - AQUARIUS 20/01 - 18/02 > PHONG THỦY TỔNG HỢP NGŨ HÀNH TRONG PHONG THỦY CỦA KHU VƯỜN
* Ý thức đạo đứcÝ thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh phúc, và về những quy tắc đánh giá,những chuẩn mực điều chỉnh hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và giữa các cá nhân với xã đầu tiên chủ nghĩa Mác chỉ ra nguồn gốc hiện thực của sự ra đời các tư tưởng và nguyên tắc, tính lịch sử, tính giai cấp, vị trí và vai trò của đạo đức và ý thức đạo đức trong sự phát triển xã hội. Ph. Ăngghen viết “Con người dù tự giác hay khôngtự giác, rút cuộc đều rút ra những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi”. Khi xã hội xuất hiện giai cấp thì ý thức đạo đức hình thành và phát triển như một hình thái ý thức xã hội phát triển của hình thái ý thức đạo đức không tách rời sự phát triển của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi của con người. Sựtự ý thức của con người về lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, danh dự, nói lên sức mạnh của đạo đức, đồng thời cũng là biểu hiện bản chất xã hội của con người. Với ý nghĩa đó, sự phát triển của ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện sự tiến bộ củaxã thức đạo đức bao gồm hệ thống những tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo đức; những tình cảm và lý tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, bởi vì, nếu không có tình cảm đạo đức thì tất cả những khái niệm, những phạm trù và tri thức đạo đứcthu nhận được bằng con đường lý tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo các xã hội có giai cấp, những nội dung chủ yếu của đạo đức mang tính giai cấp. Ph. Ăngghen viết “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ
Immanuel Kant 1724-1804 thường được coi là một trong những nhà triết học sâu sắc và nguyên bản nhất từng sống. Ông cũng nổi tiếng không kém về siêu hình học - chủ đề của "Phê bình lý tính thuần túy" —và triết lý đạo đức được nêu trong "Cơ sở cho siêu hình học về đạo đức" và "Phê bình lý tính thực tế" mặc dù "Cơ sở" là càng dễ hiểu hơn. Một vấn đề cho sự khai sáng Để hiểu triết lý đạo đức của Kant, điều quan trọng là phải làm quen với các vấn đề mà ông và các nhà tư tưởng khác cùng thời với ông, đang giải quyết. Từ lịch sử ghi lại sớm nhất, niềm tin và thực hành đạo đức của con người được đặt trên cơ sở tôn giáo. Kinh thánh, chẳng hạn như kinh thánh và kinh Qur'an, đặt ra các quy tắc đạo đức mà các tín đồ được cho là được truyền lại từ Chúa Không giết người. Đừng ăn cắp. Đừng ngoại tình , vân vân. Thực tế là những quy tắc này được cho là đến từ một nguồn trí tuệ thiêng liêng đã ban cho họ quyền hạn của họ. Chúng không chỉ đơn giản là ý kiến độc đoán của ai đó, chúng là ý kiến của Chúa, và như vậy, chúng đưa ra cho loài người một quy tắc ứng xử hợp lệ về mặt khách quan. Hơn nữa, mọi người đều có động cơ để tuân theo những quy tắc này. Nếu bạn “đi theo đường lối của Chúa,” bạn sẽ được thưởng, trong đời này hay đời sau. Nếu bạn vi phạm các điều răn, bạn sẽ bị trừng phạt. Kết quả là, bất kỳ người nhạy cảm nào được nuôi dưỡng trong một đức tin như vậy sẽ tuân thủ các quy tắc đạo đức mà tôn giáo của họ đã dạy. Với cuộc cách mạng khoa học của thế kỷ 16 và 17 dẫn đến phong trào văn hóa vĩ đại được gọi là Khai sáng, những học thuyết tôn giáo được chấp nhận trước đây này ngày càng bị thách thức khi niềm tin vào Chúa, thánh kinh và tôn giáo có tổ chức bắt đầu suy giảm trong giới trí thức - nghĩa là, tầng lớp có học. Nietzsche đã mô tả nổi tiếng sự thay đổi này khỏi tôn giáo có tổ chức là “cái chết của Chúa”. Cách suy nghĩ mới này đã tạo ra một vấn đề cho các triết gia đạo đức Nếu tôn giáo không phải là nền tảng mang lại giá trị cho các niềm tin đạo đức, thì có thể có nền tảng nào khác? Nếu không có Chúa - và do đó không có sự đảm bảo của công lý vũ trụ đảm bảo rằng những người tốt sẽ được khen thưởng và những kẻ xấu sẽ bị trừng phạt - tại sao mọi người lại phải cố gắng trở nên tốt? Nhà triết học đạo đức người Scotland Alisdair MacIntrye gọi đây là “vấn đề Khai sáng”. Giải pháp mà các nhà triết học đạo đức cần đưa ra là xác định thế tục phi tôn giáo về đạo đức là gì và tại sao chúng ta nên cố gắng trở thành đạo đức. Ba phản ứng đối với vấn đề khai sáng Lý thuyết khế ước xã hội— Một câu trả lời cho Vấn đề Khai sáng được tiên phong bởi nhà triết học người Anh Thomas Hobbes 1588-1679, người đã lập luận rằng đạo đức về cơ bản là một tập hợp các quy tắc mà con người đồng ý với nhau để có thể chung sống với nhau. Nếu chúng ta không có những quy tắc này — nhiều quy tắc trong số đó là hình thức của luật do chính phủ thực thi — cuộc sống của mọi người sẽ hoàn toàn khủng khiếp. Chủ nghĩa lợi dụng - Chủ nghĩa lợi dụng, một nỗ lực khác nhằm tạo cho đạo đức một nền tảng phi tôn giáo, được tiên phong bởi các nhà tư tưởng bao gồm David Hume 1711-1776 và Jeremy Bentham 1748-1842 . Chủ nghĩa lợi dụng cho rằng niềm vui và hạnh phúc có giá trị nội tại. Chúng là thứ mà tất cả chúng ta mong muốn và là mục tiêu cuối cùng mà mọi hành động của chúng ta hướng tới. Một cái gì đó tốt nếu nó thúc đẩy hạnh phúc, và nó xấu nếu nó tạo ra đau khổ. Nhiệm vụ cơ bản của chúng ta là cố gắng làm những điều để tăng thêm hạnh phúc và / hoặc giảm bớt số lượng đau khổ trên thế giới. Đạo đức học Kant - Kant không có thời gian cho chủ nghĩa Bất lợi. Ông tin vào việc đặt trọng tâm vào hạnh phúc, lý thuyết hoàn toàn hiểu sai bản chất thực sự của đạo đức. Theo quan điểm của ông, cơ sở cho ý thức của chúng ta về điều tốt hay xấu, đúng hay sai, là nhận thức của chúng ta rằng con người là những tác nhân tự do, hợp lý, những người cần được tôn trọng phù hợp với những sinh vật đó — nhưng chính xác thì điều đó đòi hỏi điều gì? Vấn đề với chủ nghĩa lợi dụng Theo quan điểm của Kant, vấn đề cơ bản của thuyết vị lợi là nó đánh giá các hành động dựa trên hệ quả của chúng. Nếu hành động của bạn khiến mọi người vui vẻ thì thật tốt; nếu nó làm ngược lại, nó là xấu. Nhưng điều này có thực sự trái ngược với những gì chúng ta có thể gọi là đạo đức thông thường không? Hãy xem xét câu hỏi này Ai là người tốt hơn, triệu phú tặng đô la cho tổ chức từ thiện để ghi điểm với lượt theo dõi trên Twitter của mình hay người lao động lương tối thiểu quyên góp tiền một ngày cho tổ chức từ thiện vì cô ấy nghĩ rằng mình có nhiệm vụ phải giúp đỡ những người nghèo khổ? Nếu hậu quả là tất cả những gì quan trọng, thì hành động của triệu phú về mặt kỹ thuật là "tốt hơn". Nhưng đó không phải là cách mà đa số mọi người sẽ nhìn nhận tình hình. Hầu hết chúng ta đánh giá hành động vì động cơ của chúng hơn là hậu quả của chúng. Lý do là rõ ràng hậu quả của các hành động của chúng ta thường nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta, giống như quả bóng nằm ngoài tầm kiểm soát của người ném bóng một khi nó rời khỏi tay anh ta. Tôi có thể cứu một mạng người trong rủi ro của chính mình, và người tôi cứu có thể trở thành một kẻ giết người hàng loạt. Hoặc tôi có thể vô tình giết ai đó trong quá trình cướp của họ, và làm như vậy có thể vô tình cứu thế giới khỏi một tên bạo chúa khủng khiếp. Ý chí tốt Tác phẩm "Groundwork" của Kant mở đầu bằng dòng "Điều duy nhất tốt vô điều kiện là một ý chí tốt." Lập luận của Kant cho niềm tin này là khá hợp lý. Hãy xem xét bất cứ điều gì bạn nghĩ về mặt "tốt" —chính xác, giàu có, xinh đẹp, thông minh, Đối với mỗi điều này, bạn cũng có thể hình dung ra một tình huống mà cái gọi là điều tốt này rốt cuộc lại không tốt. Ví dụ, một người có thể bị hư hỏng bởi sự giàu có của họ. Sức khỏe dẻo dai của kẻ bắt nạt khiến hắn dễ dàng lạm dụng nạn nhân hơn. Vẻ đẹp của một người có thể khiến cô ấy trở nên vô dụng và không phát triển được sự trưởng thành về mặt cảm xúc. Ngay cả hạnh phúc cũng không tốt nếu nó là hạnh phúc của một kẻ bạo dâm tra tấn nạn nhân không muốn. Ngược lại, thiện chí, Kant nói, luôn luôn tốt - trong mọi hoàn cảnh. Chính xác thì Kant có nghĩa là gì với thiện chí? Câu trả lời là khá đơn giản. Một người hành động không thiện chí khi họ làm những gì họ làm vì họ nghĩ rằng đó là nghĩa vụ của họ — khi họ hành động từ ý thức về nghĩa vụ đạo đức. Nghĩa vụ so với Độ nghiêng Rõ ràng, chúng ta không thực hiện mọi hành động nhỏ từ ý thức nghĩa vụ. Phần lớn thời gian, chúng ta chỉ đơn giản làm theo khuynh hướng của mình — hoặc hành động vì tư lợi. Về bản chất, không có gì sai với điều đó, tuy nhiên, không ai xứng đáng được ghi nhận vì theo đuổi lợi ích của chính họ. Nó đến với chúng ta một cách tự nhiên, cũng như nó đến một cách tự nhiên với mọi loài động vật. Tuy nhiên, điều đáng chú ý ở con người là chúng ta có thể, và đôi khi làm, thực hiện một hành động từ động cơ đạo đức thuần túy — ví dụ, khi một người lính ném lựu đạn vào mình, hy sinh mạng sống của mình để cứu mạng người khác. Hoặc ít hơn đáng kể, tôi trả lại một khoản vay hữu nghị như đã hứa mặc dù ngày lãnh lương không còn trong một tuần nữa và làm như vậy tôi sẽ tạm thời thiếu tiền mặt. Theo quan điểm của Kant, khi một người tự do lựa chọn làm điều đúng chỉ vì đó là điều đúng đắn phải làm, hành động của họ sẽ làm tăng giá trị cho thế giới và thắp sáng nó, có thể nói, với một ánh sáng đạo đức ngắn ngủi. Nói rằng mọi người nên làm nhiệm vụ của họ từ một ý thức nghĩa vụ là dễ dàng - nhưng làm thế nào chúng ta phải biết nghĩa vụ của mình là gì? Đôi khi chúng ta có thể thấy mình phải đối mặt với những tình huống khó xử về đạo đức, trong đó không rõ hành động nào là đúng về mặt đạo đức. Theo Kant, tuy nhiên, trong hầu hết các tình huống, nghĩa vụ là điều hiển nhiên. Nếu chúng ta không chắc chắn, chúng ta có thể tìm ra câu trả lời bằng cách phản ánh nguyên tắc chung mà Kant gọi là “Mệnh lệnh phân loại”. Ông tuyên bố đây là nguyên tắc cơ bản của đạo đức và tất cả các quy tắc và giới luật khác có thể được suy ra từ nó. Kant đưa ra một số phiên bản khác nhau của mệnh lệnh phân loại này. Một câu nói như sau "Chỉ hành động theo châm ngôn mà bạn có thể làm như một luật chung." Về cơ bản, điều này có nghĩa là chúng ta chỉ nên tự hỏi bản thân, Sẽ thế nào nếu mọi người hành động theo cách tôi đang hành động? Tôi có thể chân thành và nhất quán mong muốn về một thế giới mà mọi người đều cư xử theo cách này không? Theo Kant, nếu hành động của chúng ta là sai về mặt đạo đức, câu trả lời cho những câu hỏi đó sẽ là không. Ví dụ, giả sử tôi đang nghĩ đến việc thất hứa. Tôi có thể ước một thế giới mà mọi người đã thất hứa khi giữ chúng là điều bất tiện? Kant lập luận rằng tôi không thể muốn điều này, đặc biệt là bởi vì trong một thế giới như vậy không ai dám hứa vì mọi người đều biết rằng một lời hứa chẳng có nghĩa lý gì. Nguyên tắc Kết thúc Một phiên bản khác của Mệnh lệnh phân biệt mà Kant đưa ra nói rằng người ta nên “luôn coi mọi người là mục đích của chính họ, không bao giờ chỉ đơn thuần là phương tiện cho mục đích của chính mình.” Điều này thường được gọi là “nguyên tắc kết thúc”. Mặc dù giống với Quy tắc vàng "Hãy làm với người khác như bạn sẽ làm cho họ đối với bạn", nó tạo cơ sở cho việc tuân theo quy tắc đối với loài người hơn là chấp nhận sự nghiêm khắc của ảnh hưởng thần thánh. Chìa khóa cho niềm tin của Kant về điều khiến con người trở thành con người có đạo đức là thực tế rằng chúng ta là những sinh vật tự do và có lý trí. Đối xử với ai đó như một phương tiện cho mục đích hoặc mục đích của riêng bạn là không tôn trọng sự thật này về họ. Ví dụ, nếu tôi khiến bạn đồng ý làm điều gì đó bằng cách hứa sai, thì tôi đang thao túng bạn. Quyết định của bạn để giúp tôi dựa trên thông tin sai lệch ý tưởng rằng tôi sẽ giữ lời hứa của mình. Bằng cách này, tôi đã phá hoại sự hợp lý của bạn. Điều này càng rõ ràng hơn nếu tôi ăn cắp của bạn hoặc bắt cóc bạn để đòi tiền chuộc. Ngược lại, coi ai đó là cứu cánh bao gồm việc luôn tôn trọng sự thật rằng họ có khả năng tự do lựa chọn hợp lý, có thể khác với những lựa chọn mà bạn mong muốn họ đưa ra. Vì vậy, nếu tôi muốn bạn làm điều gì đó, hành động đạo đức duy nhất là giải thích tình huống, giải thích những gì tôi muốn và để bạn tự quyết định. Khái niệm Khai sáng của Kant Trong bài luận nổi tiếng của mình "Khai sáng là gì?" Kant định nghĩa nguyên tắc là "sự giải phóng của con người khỏi sự non nớt tự áp đặt của mình." Điều này có nghĩa là gì, và nó có liên quan gì đến đạo đức của anh ta? Các câu trả lời quay trở lại vấn đề tôn giáo không còn cung cấp một nền tảng thỏa đáng cho đạo đức. Cái mà Kant gọi là “sự non nớt” của nhân loại là thời kỳ mà con người không thực sự nghĩ cho bản thân, thay vào đó, thường được chấp nhận các quy tắc đạo đức do tôn giáo, truyền thống hoặc các nhà chức trách như nhà thờ, lãnh chúa hoặc vua truyền lại cho họ. Sự mất niềm tin vào thẩm quyền đã được công nhận trước đây này được nhiều người coi là một cuộc khủng hoảng tinh thần đối với nền văn minh phương Tây. Nếu "Chúa đã chết, làm sao chúng ta biết điều gì là đúng và điều gì là đúng?" Câu trả lời của Kant là mọi người chỉ đơn giản là phải giải quyết những điều đó cho chính họ. Đó không phải là một điều gì đó để than thở, nhưng cuối cùng, một điều gì đó để kỷ niệm. Đối với Kant, đạo đức không phải là vấn đề ý thích chủ quan được đặt ra dưới danh nghĩa thần thánh, tôn giáo hay luật pháp dựa trên các nguyên tắc được ban hành bởi những người phát ngôn trên đất của các vị thần đó. Kant tin rằng “luật luân lý” — mệnh lệnh phân loại và mọi thứ nó bao hàm — là thứ chỉ có thể được khám phá thông qua lý trí. Nó không phải là một cái gì đó áp đặt lên chúng tôi mà không có. Thay vào đó, đó là một quy luật mà chúng ta, với tư cách là những sinh vật có lý trí, phải áp đặt lên chính mình. Đây là lý do tại sao một số cảm xúc sâu sắc nhất của chúng ta được phản ánh trong sự tôn kính của chúng ta đối với luật đạo đức, và tại sao, khi chúng ta hành động như thể chúng ta tôn trọng nó - nói cách khác, từ ý thức bổn phận - chúng ta hoàn thành mình với tư cách là những người có lý trí.
triết học đạo đức